Khoa Khoa học Chính trị trân trọng giới thiệu bài viết "Xây dựng hệ thống chính trị theo quan điểm Đại hội Đảng lần thứ XII" của PGS.TS. Đinh Xuân Lý, được đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2016.
Toàn văn:
Đánh giá tổng quát 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XII (tháng 1-2016) đã đúc kết 5 kinh nghiệm, trong đó kinh nghiệm thứ nhất là: “trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, phải hết sức chú trọng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh”[1]. Từ nội dung kinh nghiệm cho thấy, xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị gắn bó hữu cơ, không thể tách rời, và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là vấn đề hàng đầu, có ý nghĩa quyết định xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, bởi Đảng tuy là một thành tố của hệ thống chính trị, nhưng là thành tố trung tâm lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Để xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, ngoài việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Báo cáo chính trị tại Đại hội XII cũng nhấn mạnh phải hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
I. Những quan điểm cơ bản của Đại hội XII về xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh
Theo quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ XII, vấn đề xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, cơ bản là xây dựng ba thành tố trụ cột của hệ thống chính trị nước ta. Đó là Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đại hội XII xác định sáu nhiệm vụ trong nhiệm kỳ (2016-20120), trong đó nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên là “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”[2].
Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đó, Báo cáo Chính trị đề ra yêu cầu trước hết phải chú trọng xây dựng Đảng về chính trị, bảo đảm sự kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng; tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Tập trung thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thông qua tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của Đảng, do đó phải đổi mới bộ máy của Đảng và đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ để đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Báo cáo Chính trị đề ra chủ trương đổi mới bộ máy của Đảng theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
Để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu về phẩm chất và tài năng, cần phải có thiết chế và cơ chế thích hợp để thực hiện hiệu quả công tác cán bộ, trực tiếp là công tác nhân sự. Báo cáo Chính trị chủ trương Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hiện tượng cục bộ, bè phái, "lợi ích nhóm", gây mất đoàn kết trong Đảng.
Với tư cách là một Đảng có “đạo đức và văn minh”, để thuyết phục quần chúng nhân dân đi theo, ủng hộ, thực hiện các cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng, Báo cáo Chính trị chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng; đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát".
Xuất phát từ nhận thức tham nhũng, lãng phí là một trong những nguyên nhân căn bản làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước, Báo cáo Chính trị đề ra quyết tâm: Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ "lợi ích nhóm"; chống đặc quyền, đặc lợi.
Để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội, Báo cáo Chính trị đề ra yêu cầu Đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng. Trong đó nhấn mạnh “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”[3].
Đảng cầm quyền là Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chi phối toàn bộ hệ thống chính trị, vì vậy phải đổi mới phương thức lãnh đạo, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo trong hệ thống tổ chức của Đảng; đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong cấu trúc hệ thống chính trị, Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị - Là thành tố trung tâm của hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, thể hiện trực tiếp nhất bằng nhà nước và thông qua nhà nước. Chính vì vậy, để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh cần phải nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước – tức là phải có một Nhà nước mạnh.
Xuất phát từ yêu cầu đó, Báo cáo chính trị Đại hội XII nêu các Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước mạnh. Trong đó, trước hết Đảng xác định: Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị[4].
Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế.
Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật theo các nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước.
Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất.
Về vấn đề tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Quan điểm của Đảng là: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, nhất là hoạt động lập pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Báo cáo chính trị đề ra yêu cầu chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, thông qua các biện pháp như: Đẩy mạnh dân chủ hoá công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính.
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
Hệ thống chính trị nước ta là một hình thức tổ chức thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân, là phương thức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Để thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ quan trọng đó, ngoài việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, cần phải tập trung xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong hệ thống chính trị nước ta Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong đó, trước hết là công cụ để hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước. Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, Báo cáo chính trị đề ra các phương hướng và nhiệm vụ như:
Tiếp tục tăng cường củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc trong tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động ngoại giao nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đẩy mạnh dân chủ hoá xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; thực hiện tốt Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
II. Một số giải pháp góp phần xây dựng hệ thống chính trị theo quan điểm Đại hội XII
Để thực hiện tốt quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, ngoài những phương hướng và biện pháp chung được nêu trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII, xuất phát từ thực tiễn, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể như:
Một là, công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Đảng trong hệ thống chính trị cần phải thể hiện đúng quan điểm “ý Đảng, lòng dân”, nghĩa là phải tạo cơ chế để nhân dân được trực tiếp tham gia quy trình bầu, chọn cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ cao cấp đứng đầu nhà nước, chính phủ, và các tổ chức chính trị - xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Đảng với tư cách lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước và xã hội, là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, nên chất lượng công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Đảng quyết định chất lượng, hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta.
Để bầu, chọn cán bộ của hệ thống chính trị theo tiêu chuẩn “vì công tác, vì tài năng” mà lựa chọn, cắt cử cán bộ, chứ không phải “vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang”, công tác nhân sự của Đảng cần phải có sự tham gia của nhân dân. Cụ thể là: Đảng chỉ quyết định bổ nhiệm cán bộ, bố trí cán bộ trên cơ sở lá phiếu tín nhiệm của nhân dân. Nếu công tác bổ nhiệm cán bộ, bố trí cán bộ khép kín trong tổ chức Đảng, nội bộ Đảng sẽ dễ bị nạn “bè phái”, “nhóm lợi ích”, “thân thích” chi phối, rất khó tìm được người xứng đáng. Trên cơ sở quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Đại hội XII, nếu Đảng biết dựa vào nhân dân, Đảng sẽ “hiểu, đánh giá đúng cán bộ”. Bởi vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân chúng rất đông”, “Tai mắt họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy” - Nhân dân là người nhìn thấu được phẩm chất, tài năng cũng như những thói hư, tật xấu của những người lãnh đạo, quản lý họ. Nhân dân tham gia công tác bầu, chọn cán bộ của hệ thống chính trị thì sẽ hạn chế được nạn “bè phái”, “nhóm lợi ích”, “thân thích” và sẽ dễ dàng phát hiện được tham nhũng, thoái hóa, biến chất, sẽ xây dựng được đội ngũ cán bộ tốt. Do đó, muốn xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân, thì phải tạo cơ chế để nhân dân được trực tiếp tham gia quy trình bầu, chọn cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ cao cấp giữ vị trí đứng đầu.
Hai là, quan liêu và tham nhũng đối lập với dân chủ, làm mất uy tín của Đảng, Nhà nước và cản trở tiến trình xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Để chống quan liêu, tham nhũng một cách hiệu quả phải dựa vào nhân dân.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu Đảng thiếu sự gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng sẽ mất sáng suốt, trở thành quan liêu, độc đoán chuyên quyền. Đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng phát sinh, phát triển. Vì vậy, để chống quan liêu, tham nhũng một cách hiệu quả, Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phải dựa vào nhân dân. Mặt khác, nhân dân là nạn nhân trực tiếp của quan liêu, tham nhũng, do đó nhân dân là lực lượng sáng suốt nhất, mạnh mẽ nhất (trong đó đặc biệt là sức mạnh của dư luận nhân dân), kiên quyết nhất trong cuộc chiến chống quan liêu, tham nhũng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để phát huy được vai trò của nhân dân chống quan liêu, tham nhũng, Đảng, Nhà nước cần tạo các cơ chế tiện ích và môi trường thuận lợi cho nhân dân. Đó là cơ chế công khai, minh bạch các hoạt động của Đảng, Nhà nước trên các lĩnh vực tổ chức, nhân sự, kinh tế, tài chính...; là cơ chế để những phản ánh của người dân được tiếp nhận thuận lợi, và giải quyết kịp thời; là cơ chế để báo chí, truyền thông tham gia chống quan liêu, tham nhũng; là cơ chế bảo vệ người dân chống quan liêu, tham nhũng...
Ba là, củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc phải đảm bảo Mặt trận Tổ quốc là một liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện, phải đảm bảo tính độc lập tương đối của Mặt trận Tổ quốc trong quan hệ với các thành tố khác của hệ thống chính trị.
Do đặc thù quá trình hình thành quyền lực chính trị của Đảng gắn liền với quá trình giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay đều do Đảng xây dựng và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một sự thuận lợi rất lớn cho thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có vấn đề đặt ra là các tổ chức này dễ trở thành “cánh tay nối dài của Đảng” - trở thành cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, hành chính hóa chức năng, nhiệm vụ cơ bản trong quá trình hoạt động, xa rời tính tự nguyện, dân chủ, hiệp thương, phối hợp hành động, cùng có lợi trong một mục tiêu chung của các tổ chức chính trị - xã hội đúng nghĩa. Đây là một nguyên nhân lớn làm giảm sức mạnh và hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc.
Để Mặt trận Tổ quốc hoàn thành tốt nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc, tạo đồng thuận xã hội, phát huy vai trò giám sát và phản biện xây dựng Đảng, Nhà nước, một mặt cần phải xây dựng những thiết chế, cơ chế cụ thể để nhân dân trực tiếp bày tỏ ý kiến và nguyện vọng của mình trong việc đấu tranh bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân, trong việc tham gia xây dựng, quản lý Nhà nước và xã hội. Mặt khác, trong quá trình củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc phải đảm bảo Mặt trận Tổ quốc là một liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận; đảm bảo tính độc lập tương đối của Mặt trận Tổ quốc trong quan hệ với các thành tố khác của hệ thống chính trị - đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận chính là trao quyền thực sự đúng với chức năng, nhiệm vụ cơ bản của Mặt trận.
Tóm lại, thực hiện tốt các quan điểm của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị, cùng các giải pháp cụ thể nêu trên, sẽ thiết thực góp phần hoàn thành mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới, được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam, là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”[5].
PGS,TS. Đinh Xuân Lý
Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2016
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H 2016, tr63.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H 2016, tr217.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H 2016, tr217.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H 2016, tr175.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H 2016, tr429-430.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn